GIỚI THIỆU CÁ ĐỐI

23/10/2017

Cá đối (Grey Mullet) được phân bố rộng rãi ở các vùng nước ven biển nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Chúng sống chủ yếu trong các vùng nước mặn miền duyên hải và những vùng nước lợ tại các cửa sông lớn, nhưng cũng có vài loài sống trong nước ngọt. Như vậy cá đối được phân bố rất rộng rãi, có thể sống ở những độ mặn thay đổi lớn từ 0 đến 35 phần nghìn, có khi đến 83 phần nghìn.

Cá có thân tròn dẹt, dài trung bình 20cm, những con lớn có thể dài tới 90cm, nặng 6 – 7kg là một nguồn chất đạm quan trọng được con người dùng làm thực phẩm từ lâu đời. Ngoài ra, trứng cá đối còn là món ăn quí được nhiều người ưa chuộng.

Cá đối khi còn nhỏ (từ giai đoạn ấu trùng đến cá giống) ăn động vật phù du. Khi trưởng thành chúng chuyển sang ăn thực vật phiêu sinh, mùn bã hữu cơ lơ lửng và các thảm thực vật đáy.

Cá đối có tập tính sống thành đàn. Tập tính này thể hiện mạnh nhất vào mùa sinh sản, cá thường tập trung thành từng bầy lớn di cư ra các vùng nước sâu ngoài biển để sinh sản. Cá đối sinh sản theo mùa. Mùa sinh sản của chúng kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Cá đối đẻ rất nhiều trứng, cá càng lớn sức sinh sản càng cao.

Một con cá đối cái có trọng lượng khoảng 1,5kg có thể đẻ từ 1 triệu đến 1,5 triệu trứng. Trứng cá đối có đường kính từ 0,9 – 1mm. Trứng đã thụ tinh nở ra ấu trùng trong khoảng 16 – 30 giờ ở nhiệt độ 20 đến 24 độ C. Ấu trùng cá đối rất nhỏ, chỉ dài khoảng 2,5 – 3,5mm, lớn dần trở thành cá bột xuất hiện theo mùa ở vùng cửa sông.

Từ thịt cá đối ta có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon, phổ biến hơn cả là các món cá đối kho dưa cải, cá đối nấu canh dưa, cá đối nướng, hấp cách thuỷ, cá đối hấp cuốn bánh tráng, cháo cá đối… món nào cũng ngon ngọt, rất hấp dẫn. Nhiều món ăn chế biến từ cá đối được coi như những món ăn – bài thuốc bồi dưỡng sức khoẻ tốt, đặc biệt là món cháo cá đối.

Nguồn: Viện Dinh dưỡng Quốc gia

 

Tin Liên Quan